Bình thường, cổ, vai của người ta hàng ngày cần mẫn hoạt động, chúng là bộ phận hoạt động nhiều nhất của con người. Dù là lao động, công tác, đọc sách, xem báo, mặc quần áo, ăn cơm,… không thể thiếu hoạt động của chúng. Do đó, đến một thời gian nhất định cổ, vai sẽ sinh ra mỏi mệt, đau (gọi là đau mạn tính).
Vì cổ, vai là bộ phận ở phía trên và lộ rõ ra ngoài nhiều nhất của cơ thể nên hàng ngày lao động, vận động thường hay bị sái cổ, vẹo cổ,… những thương cấp, mạn tính này dẫn đến đau cổ vai.
Cổ ở giữa đầu, não và chi trên, phía trước có yết hầu, khí quản, thực quản, hai bên có huyết quản, gân cổ, thần kinh cánh tay, cơ chính của vai ở phía sau, đốt sống cổ ở trục giữa. Vai ở giữa cổ lưng và chi trên, trước có xương bả vai, sau có xương sống lưng, ngoài có xương cánh tay, trong có xương sống và lồng ngực.
Do quan hệ gần gũi giữa cổ và vai, cả 2 cùng vận động nhiều, cho nên cả 2 cũng dễ ảnh hưởng và cũng bị bệnh.
Bộ phận cổ, vai rất phức tạp vì nó ở phần trên của người và đoạn đầu của thần kinh xương sống. Khi phát hiện đau phần mềm, không những dẫn đến cổ, vai đau khó chịu mà còn dẫn đến các bộ phận khác cùng đau. Ví dụ: sai vị trí xương quai xanh có thể dẫn đến khó thở, tức ngực, loạn nhịp tim, lo sợ, chức năng của dạ dày thất thường,…
Người bị bệnh có thể có hiện tượng tê, đau buốt ở tri trên. Đau phần mềm ở cổ sẽ dẫn đến nhức đầu, choáng, chóng mặt…. Những hiện tượng trên luôn làm cho những thầy thuốc khám lâm sàng thiếu kinh nghiệm sẽ chẩn đoán sai, tìm không ra nguyên nhân bệnh, từ đó sẽ không có phương pháp chữa tốt.
Đau vai – cổ có thể xuất phát từ nhiều bệnh lý khác nhau:
Từ tuổi trung niên trở đi, hệ mạch máu đã giảm tính dẻo dai, đàn hồi nên hay mắc chứng đau cổ, vai, gáy nhất. Có khi kèm theo mỏi cổ, nhức đầu, hoa mắt, buồn ngủ, quay cổ nghe lắc rắc… rất khó chịu, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt
Độ tuổi đau cổ, vai, gáy đang có xu hướng trẻ hoá với những người hay làm ở một tư thế trong thời gian dài như vừa nghe điện thoại, vừa ghi chép, làm việc liên tục với máy tính, sơn trần, lái xe ô tô ở tư thế ghế ngửa ra phía sau, tay duỗi thẳng phía trước… khiến cơ bắp dễ tổn thương làm cho đĩa đệm cột sống cổ sớm suy thoái, sưng tấy, trực tiếp chèn ép lên các dây thần kinh tương quan vai, gáy gây đau đớn, khó chịu. Các loại thuốc, kem, dầu nóng… chỉ giảm đau nhất thời.
Tổn thương đốt sống cổ là do thoái hoá đốt sống cổ thường gặp nhiều ở độ tuổi 40-50. Thoái hóa đốt sống cổ nhất là ở lỗ tiếp hợp sẽ gây kích thích dây thần kinh tủy và lúc đó sẽ gây kích thích đau theo khu vực chi phối của dây thần kinh: gáy- bả vai- cánh tay.
Cũng cần xác định chứng bệnh qua phim chụp X-quang cột sống cổ tư thế chếch trước trái và chếch trước phải xem có hình ảnh gai xương hay thu hẹp lỗ – tiếp hợp gây ra đau.
Cơ thang là một cơ lớn vùng cổ – vai, hai đầu bám vào xương chậm trải dài và xương đòn, phần bụng bám vào các mỏm gai của cột sống cổ và cột sống ngực, cũng như vào gai vai và mỏm cùng của xương bả vai. VCT thường gặp ở những người hay nằm nghiêng (đè bả vai), dùng gối quá dày (làm cổ bị gập), làm việc trong phòng lạnh hay trong tư thế bị quạt máy thổi từ phía sau. VCT cũng gặp ở những người thường xuyên đi ngoài trời bị năng chiếu vào vùng gáy do mạch máu bị co thắt hay bị chèn ép, tình trạng thiếu máu cơ làm phóng thích các hoạt động gây đau và co thắt cơ, gây nhiều máu hơn nữa, từ đó tạo nên 1 vòng lẩn quẩn khiến người bệnh ngày càng đau hơn.
Các biện pháp điều trị đều nhắm vào việc cắt ngang cái vòng bệnh lý này từ thuốc giảm đau, giãn cơ, giãn mạch đến các liệu pháp xoa bóp, chườm nóng, bôi methyl salicilat (dầu nóng, Salonpas…). Để ngăn ngừa VCT, cần tránh các yếu tố gây chèn ép hay co thắt cơ cũng như thường xuyên vận động thể là cơ bắp được khỏe.
Bó cơ ức đòn chũm nằm hai bên cổ, đi từ xương ức và xương đòn đến xương chùm nằm phía sau vành tai, giữ vai trò chính trong động tác xoay cổ. Vì thế khi nó bị đau, người bệnh cảm thấy cổ bị cứng và đau nhiều khi cố xoay. Cơ thang thường cũng bị ảnh hưởng phần nào khi cơ ức đòn chũm bị viêm. Sự co thắt cơ thường do nằm ngủ sai tư thế cộng thêm nhiệt độ phòng thấp do máy lạnh hay trời rét, làm việc nặng trong ngày, stress, mỏi mệt, cảm cúm… Việc điều trị tương tự như với viêm cơ thang: giảm đau, giãn cơ, tăng cường máu đến cơ bằng thuốc và vật lý trị liệu.
Trong bệnh viêm xoang, chứng nhức đầu thường nổi trội hơn đau cổ và vai, tuy nhiên trong một số ca viêm xoang mạn tính, người bệnh đã dùng thuốc kháng sinh nhiều có triệu chứng đau cổ vai mà có khi không bị nhức đầu hay sốt, mệt, chảy nước mũi… Người bệnh thường đau vùng gáy nhiều mà không có dấu hiệu bệnh lý của cột sống. Cơ thang cũng có thể đau nhưng cơ bắp và khớp xương đều bình thường, cử động không bị giới hạn. Điều trị viêm xoang sẽ làm hết đau.
Bệnh lý này của khớp vai đôi khi gây đau sau bả vai, và có thể lan lên cổ, dễ gây nhầm lẫn nhất là khi người bệnh cũng đau ở gần cột sống. Người bệnh thường bị đau khi làm động tác đưa tay ra sau và xoay trong hoặc đưa tay lên cao và xoay ngoài. Bệnh có thể điều trị bằng thuốc kháng viêm và tập vật lý trị liệu, nhưng nó dễ tái phát – phải tìm ra nguyên nhân để trị tận gốc.
VMGCSC gây đau dọc theo cột sống cổ; các mỏm gai đốt sống cổ, có thể dễ dàng sờ thấy, là chỗ bám của các dây chằng liên gai, ấn vào thấy đau nhói khi bị viêm, làm động tác ngửa cổ cũng thấy đau. Bệnh nhân thường có dấu hiệu thấp khớp nơi khác trên cơ thể hoặc có tiền còn thấp khớp trước đó.
Có những trường hợp nặng hơn do tình trạng bán trật đốt sống cổ khi dây chằng bị yếu khiến ống sống bị chèn ép gây nên triệu chứng tê tay hoặc yếu liệt chi trên. Để điều trị có hiệu quả, cần cho bệnh nhân đặt nẹp cổ và dùng thuốc kháng viêm. Nếu có dấu hiệu bán trật khớp thì đặt áo nẹp Hallovest hoặc kéo tạ cổ để nắn chỉnh. Nếu không cải thiện, người bệnh được xem xét chỉ định mổ để giải phóng chèn ép tủy cổ.
Đây là bệnh thường gặp ở người trên 40 tuổi. Có thể phát hiện các chồi xương hay sự biến dạng cột sống do lão hóa bằng phim X-quang thông thườn. Đau nhức không phải là do các chồi xương tạo ra mà do các dây chằng, cơ bắp xung quanh bị viêm và suy yếu. Đĩa đệm đốt sống cũng có thể bị thoái hóa và khiến cho các lỗ sống bị thu nhỏ, gây chèn ép các rễ thần kinh, làm cho đau nhức hay tê tay. Điều trị triệu chứng là chính, kèm theo các chế độ sinh hoạt, dùng thuốc và làm vật lý trị liệu để ngăn chặn sự lão hóa. Nếu ống sống bị hẹp thì xem xét chỉ định mổ để nới rộng và giải ép sau khi điều trị bảo tồn không thành công.
TVĐĐCSC tương đối ít phổ biến và gặp nhiều hơn ở người dưới 40 tuổi, gây đau nhức cột sống cổ và tê dị cảm lan xuống tay, do khối đĩa đệm bị rách bao, chồi ra sau và chèn vào tủy sống hoặc rễ thần kinh ở lỗ sống. Với các khối thoát vị nhỏ thì có thể điều trị bằng thuốc kháng viêm, nẹp cổ và nghỉ ngơi. Nếu kích thước lớn và có biểu hiện chèn ép thần kinh, người bệnh có thể được chỉ định phẫu thuật.
Những chấn thương vùng cổ nếu không được xử lý đúng ngay từ đầu có thể để lại di chứng đau nhức kéo dài, do dây chằng, bao khớp bị rách không được cố định để lành tốt, dẫn đến sẹo xấu, lỏng khớp, dây chằng yếu, giãn. Tình trạng viêm mãn tính sau chấn thương rất khó điều trị vì nó đòi hỏi sự kiên trì phối hợp giữa thầy thuốc và người bệnh. Cần xử lý thật tốt ngay khi bị chấn thương vùng cột sống cổ.
Đó là một hội chứng được xác định bởi 3 dấu hiệu:
Bệnh lý này được nêu lên sau khi các nguyên nhân khác đã được loại trừ hoặc việc điều trị thử không có kết quả. Cho đến giờ người ta vẫn chưa hiểu rõ về căn bệnh này. Có lẽ nó liên quan đến tâm lý thần kinh nên một số trường hợp có đáp ứng với thuốc chống trầm cảm. Trong bệnh sử thường có những yếu tố gây stress hay suy nhược thần kinh.
Đây là trường hợp ít gặp nhưng cần phải cảnh giác. Các khối u di căn có thể làm phá hủy các đốt sống cổ, từ đó gây đau nhức kéo dài ở vùng cổ – vai. Năm loại ung thư hay có di căn xương là ung thư phổi, vú, tiền liệt tuyến, thận và tuyến giáp.
Ngoài ra các bệnh lý nhiễm trùng như lao cột sống và viêm xương cũng xẹp đốt sống gây đau nhức, thường dễ phát hiện hơn với các biểu hiện lầm sàng (mệt, sưng đau), và cận lâm sàng (thử máu, chụp phim). Với các bệnh này không được dừng lại ở các liệu pháp thông thường (thuốc giảm đau, kháng viêm, vật lý trị liệu) mà phải tập trung vào điều trị nguyên nhân.
Tùy theo từng mức độ của bệnh mà người bệnh có những biểu hiện khác nhau trong chứng bệnh này.
Đặc điểm của vùng gáy cổ là các rễ thần kinh như rễ tủy cổ, rễ sau (có vai trò cảm giác) và rễ trước (có vai trò vận động hợp thành một dây thần kinh tủy cổ đi ra chi phối khoanh cơ thể qua lỗ tiếp hợp.
Do đặc điểm ở đoạn tủy cổ, đốt sống cổ và đốt tuỷ cổ chênh nhau một đốt nên cần chú ý đánh giá lâm sàng giữa khoanh cơ thể và khoanh đốt sống nhất là các cơn đau (đau từ đốt sống hay từ lỗ tiếp hợp). Màng cứng của tuỳ theo rễ thần kinh ra tới lỗ tiếp hợp nên có những viêm nhiễm khu trú ảnh hưởng và gây ra chứng bệnh này.
>>>Nhận ngay gói ưu đãi Khám + Chữa bệnh giá chỉ 199K (không mất thêm phụ phí)
Tại HTC các bác sĩ sẽ tiến hành thăm khám cẩn thận để đánh giá chính xác và toàn diện tình trạng bệnh lý của người bệnh. Từ đó tạo tiền để cho điều trị bệnh lý đau cổ vai gáy hiệu quả. Quy trình khám như sau:
Bước 1: Hỏi bệnh: Sau khi nghe bệnh nhân chia sẻ về tình trạng bệnh lý, bác sĩ sẽ hỏi thêm các câu hỏi để làm rõ hơn tình trạng bệnh.
Bước 2: Thăm khám trực tiếp vùng đau thông qua các nghiệm pháp bằng tay và một số công cụ hỡ trợ thăm khám.
Bước 3: Phân tích cận lâm sàng đã có hoặc chỉ định các cận lâm sàng cần thiết.
Bước 4: Đưa ra chẩn đoán: Tên bệnh, mức độ bệnh, nguyên nhân, hướng xử lý và dự phòng
Bước 5: Chỉ định phác đồ điều trị cụ thể: Phương pháp, thời gian, tần suất điều trị, kết quả điều trị dự kiến, chi phí cụ thể.
Với bệnh lý này kết quả điều trị đạt được gồm:
Những ưu điểm nổi bật khi điều trị bệnh xương khớp tại HTC đó là:
Đau khớp gối về đêm là tình trạng khá phổ biến, gây ảnh hưởng không…
Đau khớp gối sau sinh là tình trạng phổ biến ở các mẹ bỉm sữa,…
Em Thúy chia sẻ: “Em bị đau cổ tay do làm văn phòng đánh máy…
Bệnh nhân nữ, 17 tuổi. Địa chỉ: Hoàn Kiếm-Hà Nội Lý do thăm khám: dáng…
Bệnh nhân nam, 54 tuổi. Địa chỉ: Lý Thái Tổ-Hoàn Kiếm-Hà Nội Lý do: đau…
Đau khớp gối có nên xoa bóp không? Câu trả lời là có, nhưng cần…